Chúng ta đã biết đến IPv4, IPV4 được dùng để truyền thông cho Internet khá tốt nhưng nó bị giới hạn ở không gian điạ chỉ và có vấn đề khi có quá nhiều máy tính nối vào Internet. Để giải quyết, CIDR (Classless Interdomain Routing) được phát triển, cho phép cấp phát các địa chỉ lớp C là khối có kích thước thay đổi. Một khối là một dãy các điạ chỉ (không vượt quá kích thước chung) phù hợp với yêu cầu của tổ chức. Điều nầy làm cho điạ chỉ trở nên bị buông lỏng cho người sử dụng. Hơn nữa, CIDR gây mất thời gian.
IETF bắt đầu làm việc cho một giao thức IP cập nhật từ năm 1990, đó là IPv6, còn gọi là IPng (IP next generation), dùng để hỗ trợ cho tất cả các giao thức Internet khác nhưng không tương thích ngược trở lại với IPv4 được.
IPv6 đã được phác thảo trong RFC 1883, RFC 1884 và RFC 1887…, những tài liệu này bạn có thể tham khảo ở Web site của IETF (http://www.ietf.org)
Tính năng quan trọng nhất của IPv6 là không gian điạ chỉ của nó dài hơn. Nó dài 16 byte (128bit), nhiều hơn IPv4 (có 32 bit). Nhờ vậy nó sẽ cung cấp đủ điạ chỉ để gán đia chỉ IP cho bất kỳ người nào và bất kỳ thiết bị nào được chấp nhận trên hành tinh này
IPv6 có 3 kiểu địa chỉ:
Unicast— Địa chỉ định nghĩa cho một host.
Anycast— Địa chỉ định nghĩa một tập hợp các host, như là một tập hợp các server chạy trình ứng dụng của công ty. Một Packet gửi đến địa chỉ anycast sẽ chuyển đến một trong các host được nhận dạng bởi địa chỉ đó.
Multicast— Địa chỉ định nghĩa một tập hợp các host. Một Packet gửi đến địa chỉ multicast sẽ chuyển đến tất cả các host trong cùng nhóm.
IPv6 không có địa chỉ broadcast như IPv4. Trong IPv6 chức năng broadcast được cung cấp bởi địa chỉ multicast.
Địa chỉ IPv4 được viết dưới dạng số thập phân gồm 4 phần, mỗi phần gồm 4 byte phân cách nhau bằng dấu chấm (.), ví dụ như 198.133.219.25 là một địa chỉ IPv4.
Với IPv6, địa chỉ thể hiện dưới dạng giá trị thập lục phân gồm 8 khối 16-bit, phân cách bởi dấu 2 chấm ( : ), ví dụ như FF04:19:5:ABD4:187:2C:754:2B1. Để viết nhanh, hay nén lại, địa chỉ sử dụng dấu 2 chấm kép ( :: ) để biểu thị cho nhiều khối 16-bit số zero; một ví dụ, địa chỉ FF01:0:0:0:0:0:0:5A có thể viết FF01::5A. Để ngăn ngừa sự mơ hồ, có thể chỉ xuất hiện một dấu :: trong địa chỉ.
Một cách định dạng khác Địa chỉ lai (hybrid) được định nghĩa để tạo nhiều thuận lợi thể hiện địa chỉ IPv4 trong môi trường IPv6. Với kiểu này, 96 bit đầu địa chỉ (6 nhóm 16) được hiển thị theo định dạng IPv6. 32 bit địa chỉ còn lại hiển thị theo số thập phân IPv4 thông thường, ví dụ như 0:0:0:0:0:0:199.182.20.17 (hay ::199.182.20.17).
IETF bắt đầu làm việc cho một giao thức IP cập nhật từ năm 1990, đó là IPv6, còn gọi là IPng (IP next generation), dùng để hỗ trợ cho tất cả các giao thức Internet khác nhưng không tương thích ngược trở lại với IPv4 được.
IPv6 đã được phác thảo trong RFC 1883, RFC 1884 và RFC 1887…, những tài liệu này bạn có thể tham khảo ở Web site của IETF (http://www.ietf.org)
Tính năng quan trọng nhất của IPv6 là không gian điạ chỉ của nó dài hơn. Nó dài 16 byte (128bit), nhiều hơn IPv4 (có 32 bit). Nhờ vậy nó sẽ cung cấp đủ điạ chỉ để gán đia chỉ IP cho bất kỳ người nào và bất kỳ thiết bị nào được chấp nhận trên hành tinh này
IPv6 có 3 kiểu địa chỉ:
Unicast— Địa chỉ định nghĩa cho một host.
Anycast— Địa chỉ định nghĩa một tập hợp các host, như là một tập hợp các server chạy trình ứng dụng của công ty. Một Packet gửi đến địa chỉ anycast sẽ chuyển đến một trong các host được nhận dạng bởi địa chỉ đó.
Multicast— Địa chỉ định nghĩa một tập hợp các host. Một Packet gửi đến địa chỉ multicast sẽ chuyển đến tất cả các host trong cùng nhóm.
IPv6 không có địa chỉ broadcast như IPv4. Trong IPv6 chức năng broadcast được cung cấp bởi địa chỉ multicast.
Địa chỉ IPv4 được viết dưới dạng số thập phân gồm 4 phần, mỗi phần gồm 4 byte phân cách nhau bằng dấu chấm (.), ví dụ như 198.133.219.25 là một địa chỉ IPv4.
Với IPv6, địa chỉ thể hiện dưới dạng giá trị thập lục phân gồm 8 khối 16-bit, phân cách bởi dấu 2 chấm ( : ), ví dụ như FF04:19:5:ABD4:187:2C:754:2B1. Để viết nhanh, hay nén lại, địa chỉ sử dụng dấu 2 chấm kép ( :: ) để biểu thị cho nhiều khối 16-bit số zero; một ví dụ, địa chỉ FF01:0:0:0:0:0:0:5A có thể viết FF01::5A. Để ngăn ngừa sự mơ hồ, có thể chỉ xuất hiện một dấu :: trong địa chỉ.
Một cách định dạng khác Địa chỉ lai (hybrid) được định nghĩa để tạo nhiều thuận lợi thể hiện địa chỉ IPv4 trong môi trường IPv6. Với kiểu này, 96 bit đầu địa chỉ (6 nhóm 16) được hiển thị theo định dạng IPv6. 32 bit địa chỉ còn lại hiển thị theo số thập phân IPv4 thông thường, ví dụ như 0:0:0:0:0:0:199.182.20.17 (hay ::199.182.20.17).
Comment